TIÊN ĐIỀN –

LÀNG QUÊ NGUYỄN DU

                                                                                Thái Kim Đỉnh

Đến đầu thời Lê, nơi đây c̣n là băi bồi hoang vu, người ở thưa thớt, nằm ven bờ sông cả (Lam Giang), mang cái tên buồn thảm Vô Điền (không ruộng), U Điền (ruộng hoang rậm). Qua hàng trăm năm, con người đă đổ công sức khai phá để quê ḿnh có cái tên Tân Điền. Khi ông tổ họ Nguyễn Nam Dương hầu về ẩn náu và lập nghiệp vào những năm đầu thế kỷ XVII, th́ Tân Điền đă được đổi thành Phú Điền, do phải tránh tên húy của vua Lê Kính Tông (1599-1618). Sau đó, chưa rơ vào thời gian nào, Phú Điền lại đổi thành Tiên Điền. Đầu đời Cảnh Hưng, đội quân t́nh nguyện toàn lính Tiên Điền có công bảo vệ kinh thành Thăng Long, làng được ban tên “xă Trung Nghĩa”(1). Đời Nguyễn, Tiên Điền thuộc tổng Phan Xá, huyện Nghi Xuân. Sau Cách mạng tháng Tám, từ 1947 đến 1953, hợp nhất với Uy Viễn thành xă Tiên Uy. Năm 1952, chia xă, Tiên Điền và một nửa Uy Viễn là xă Xuân Tiên. Năm 1973, xă lấy lại tên cũ Tiên Điền.

Tiên Điền đông bắc giáp xă Đan Hải (Xuân Hải), tây bắc giáp xă Uy Viễn (Thị trấn Nghi Xuân), đông giáp xă Tiên Bào (Xuân Yên), nam giáp xă Phan Xá (Xuân Thành, Xuân Mỹ). Từ Tiên Điền đi qua Tiên Bào là đến biển Đông. Xưa, Tiên Bào là một thôn của Tiên Điền, dân các thôn khác gọi dân Tiên Bào là Kẻ Bể. Từ Tiên Điền nh́n qua Xuân Mỹ, thấy núi Hồng Lĩnh đứng sừng sững mé tây nam. Do vậy mà cụ Nguyễn Du đă lấy biệt hiệu “Nam hải điếu đồ”, “Hồng sơn liệp hộ”.

Ngày nay, không thể biết được ai là người đến khai phá, ḍng họ nào đến lập nghiệp đầu tiên ở Tiên Điền. Tác giả sách Nghi Xuân huyện chí (Lê Văn Diễn, người xă Tiên Bào) chép Nam dương, công Nguyễn Nhiệm vào mục Kiêu ngụ (ở đỗ) sau cả Hội quận công họ Phan. Như vậy, khi vị tổ họ Nguyễn đến (đầu thế kỷ XVII) th́ ở đây đă có nhiều ḍng họ khác. Gia phả họ Đặng, họ Trần đều cho biết vị sơ tổ đến đây vào thế kỷ XV. Nhưng sách trên cũng lại cho biết, vào thời gian này, một người họ Hoàng, thôn Báu Kệ, tên thuỵ là Chính Trực (không rơ tên húy) đỗ hương cống khai khoa ở Tiên Điền. Tiếp đó là hai cha con nhà họ Lê. Qua danh mục các nhà khoa bảng này th́ có thể họ Hoàng, họ Lê c̣n đến sớm hơn họ Đặng, họ Trần. Hai họ Hoàng, Lê ở tập trung nhất tại thôn Báu Kệ, tương truyền được lập lên sớm nhất ở Tiên Điền.

Mấy cứ liệu trên chưa phải đă hoàn toàn thuyết phục, nhưng qua đây có thể nghĩ rằng Tiên Điền lập làng muộn nhất là từ thế kỷ XIII, XIV và c̣n có thể sớm hơn.

Cũng như nhiều làng xă khác, việc phân bố vùng cư trú ở Tiên Điền xưa theo huyết thống, người cùng họ tập trung vào một xóm, một thôn. Ở Báu Kệ, ngoài họ Hoàng, họ Lê c̣n có họ Trần. Ở Lương Năng, phần lớn là người họ Hà, họ Nguyễn, ở Vơ Phấn th́ người các họ Nguyễn, Trần, Hoàng và ở Văn Trường, người họ Đặng, Nguyễn…

Một số họ có nhiều chi, nhiều ḍng. Họ Hoàng có hai chi; họ Lê có ba, bốn ḍng; họ Đặng, họ Nguyễn đều có ba ḍng. Các họ có thể cùng chung một gốc, cũng có thể chỉ là đồng tính, không đồng tông. Ngoài ra c̣n có các gia đ́nh họ Lương, họ Phạm, họ Phan, họ Hồ.

Về gốc gác của các ḍng họ th́ họ Nguyễn từ Canh Hoạch (Hà Tây) vào; họ Phan (của Hội quận công) từ Sa Nam đến; họ Hồ (của Hương cống Hồ Sĩ Lâm) từ Hoàn Hậu (Quỳnh Đôi) vào (nay con cháu đă đi nơi khác); họ Đặng, họ Hà từ Đông Rạng, Tỉnh Thạch (Tùng Lộc) ra; họ Trần từ Minh Lang (Trung Lương) xuống. Một số tài liệu c̣n cho biết có mấy gia đ́nh thợ đúc đồng họ Hà từ Diễn Châu vào hành nghề và ở lại thôn Văn Trường.

Theo bản thống kê của Ṭa Công sứ Pháp ở Hà Tĩnh năm 1942 th́ dân số Tiên Điền có 439 đinh và 1.201 nhân khẩu (con số này thấp hơn thực tế một ít). Đến cuối thế kỷ XX, Tiên Điền có 222 hộ và 3.005 nhân khẩu.

Tiên Điền là một xă nhỏ trong huyện, diện tích tự nhiên chỉ già 1/6 và dân số già 1/4 của Cương Gián là xă lớn nhất huyện. Trước tháng 8-1945, cả xă chỉ có 212 mẫu ruộng, chia đầu người chưa được nửa sào. Nay xă có 150 ha đất canh tác, và 25 ha đất vườn ao, b́nh quân đầu người là 500m2 (1 sào Trung bộ) đất canh tác. Ruộng đất công rất ít, chủ yếu là ruộng tế, ruộng binh, ruộng chia cho các chức sắc trong xă… Phần lớn là ruộng đầu tư, trong đó có một số ít ruộng họ, ruộng đồng môn, ruộng đền chùa, ruộng hậu, c̣n lại là của tư nhân. Không rơ, đời Lê – Nguyễn, t́nh h́nh chiếm ruộng đất của công, khanh, quan lại ra sao. Nhưng đến trước, sau Cách mạng tháng Tám, quan lại và địa chủ đă chiếm 120/212 mẫu ruộng, có gia đ́nh có ruộng đất phát canh trong ba bốn xă. Hầu hết nông dân không có hoặc có rất ít ruộng đất. Đất mặn, đồng chua, khô táo, bạc màu. Xưa trồng cây chủ yếu là lúa (một vụ), khoai, sau thêm ngô, đậu, lạc… Vườn tược cũng chỉ có ít cây ăn quả thông thường. Nhưng Tiên Điền lại có loại đặc sản quư là cây hồng, gọi là “hồng tiến”, một thời được chọn làm vật phẩm tiến vua. Tương truyền, loại hồng này do Nguyễn Nễ (theo cụ Nghè Mai là Nguyễn Du) đi sứ bên Tàu, lấy giống từ Quảng Tây đưa về (?). Nhưng loại cây này không phải nhà nào cũng có.

Ruộng vườn không nuôi nổi con người, bao đời nông dân ở đây phải làm đủ mọi nghề để mưu sinh. Nơi người ta t́m đến trước tiên là Ngàn Hống. Và việc dễ dàng mà nhiều người làm được là lấy củi, cắt tranh, lấy mây, dang, lá tơi, lá nón, hoặc săn bắt thú rừng… Nhờ của rừng, dân Tiền Giáp, Báu Kệ có nghề đan lát chằm tơi, lợp nón. Ở Báu Kệ, ngoài nghề làm tơi, c̣n có nghề mộc, và nghề làm giấy bằng cây niệt. Nghề rèn, đúc cũng có thời rất thịnh. Nghề rèn ở đây do ông tổ họ Trần ở Minh Lang (Trung Lương) xuống từ thế kỷ XV truyền lại. Nghề đúc đồng ở Văn Trường lại do ông Hà Chu Trị và ông Bốn, ông Loan từ Diễn Châu vào hành nghề chưa lâu lắm, cho đền thời chống Mỹ, vẫn c̣n. Nghề mộc cũng có từ đời Lê. Sách Nghi Xuân huyện chí chép: “Xưa, chỉ ở Tiên Điền người làm thợ nhiều hơn, ai cũng vừa ư ông…”. Có anh thợ mộc Hà Thiềm đến nhà Xuân nhạc công (Nguyễn Nghiễm) xem thợ Ái Châu (Thanh Hóa) khắc bia đá, ṃ mẫm tự học trở thành thợ khắc nổi tiếng. Các bia đá ở Tiên Điền, Uy Viễn đều do ông khắc. Người đương thời khen ông là “nhà thợ làm đủ nghề”. Con cháu ông đều làm thợ cả trong làng. Ngoài ra, một số người ở Vơ Phấn, Lương Năng làm một số nghề khác để kiếm sống: bánh trái hàng chợ, buôn bán nhỏ…

Nói về những mặt nổi trội của đất Nghi Xuân thời Lê – Nguyễn, dân gian có câu: “Ló (lúa) Hoa (Xuân) Viên, quan Tiên Điền, tiền Hội Thống…”. Địa bạc dân bần, nhưng Tiên Điền lại nổi tiếng lắm quan văn, quan vơ, quan to, quan nhỏ, có thời trong làng đầy những công hầu khanh tướng, có nhà hiển hoạn cao khoa, có người là tể phụ triều đ́nh. Nh́n lại quá tŕnh lịch sử, th́ thấy nhiều người đến Tiên Điền cư trú xuất thân từ các danh gia vọng tộc trong nước, trong xứ. Nhiều người đến đây không phải chọn đất lập nghiệp, mà là để tránh họa diệt vong. Đó là trường hợp vị tổ của họ Đặng, Nguyễn, Hà…

Hàn lâm thị giảng (triều Hậu Trần) Đặng Chủng, con thứ hai Quốc công Đặng Tất ở Đông Rạng (nay xă Tùng Lộc, Can Lộc) sau khi quân Minh cướp nước ta, chạy lên chùa Hương Tích, Ngàn Hống làm thiền sư, thấy không yên, bèn lánh về Tiên Điền mai danh ẩn tích. Nam dương hầu Nguyễn Nhiệm, tướng nhà Mạc, ḍng dơi trạng nguyên Nguyễn Thiến ở Canh Hoạch (Hà Tây) mưu đồ khôi phục họ Mạc không thành, chạy về ẩn tránh ở Tiên Điền. C̣n tổ họ Hà là con Giám sinh Hà Công Hội, di duệ của các tiến sĩ Hà Công Tŕnh (TK XV), Hà Tông Mục (TK XVI) ở Tỉnh Thạch (nay là Tùng Lộc) lại ra Tiên Điền lánh nạn v́ một lư do khác. Số là, nhân ngày dân làng đắp đường, nhà ông Giám sinh nấu cháo mời bà con ăn. Không ngờ gói thuốc chuột rơi vào nồi lúc nào không hay. Nhiều người ăn, ngộ độc, nên các con ông phải chạy đi lánh nạn mỗi người một ngả, trong số đó, một người đă trốn ra Tiên Điền. Vị vơ quan cao cấp, Hội quận công họ Phan, làm Tả đô đốc, phong Thái phó, tương truyền quê Sa Nam (Nghệ An) về ở Đông Giáp khá sớm. Một vị khác là Uy quận công, tương truyền quê huyện Thanh Oai (Hà Tây), th́ về ở thôn Vơ Phấn. Phải chăng hai ông cũng đến Tiên Điền với lư do như các vị trên? Chúng tôi chưa có tài liệu về lai lịch vị tổ khai cơ các ḍng họ Hoàng, Lê và một số họ khác. Nhưng mấy cứ liệu trên cũng cho thấy chính những ḍng họ này đă đem chữ nghĩa đến khai sáng vùng đất nghèo nàn, hẻo lánh này, tạo nên một Tiên Điền rực rỡ hào quang, rọi sáng đến hôm nay.

Các vị Đặng, Nguyễn, Hà đều xuất thân từ những cự tộc văn học. Họ Đặng, họ Nguyễn là ḍng nhà tướng.

Ngoài hai ḍng họ trên, dân Tiên Điền nói chung đều là vơ dũng. Một chàng trai họ Trần, lúc trẻ ra học ở Thăng Long, thi đấu với Đô lực sĩ thắng cuộc, được bổ là Đô lực sĩ, Quản binh. Có công đánh giặc, chàng được phong tới chức Cẩm y vệ Đô chỉ huy sứ Tả hiệu điểm Thự vệ sự, tước Trung phụ hầu, lấy con gái chúa Trịnh, được ban Pḥ mă, Đoan quận công. Một chàng trai họ Trần khác, lúc quân Nam Bắc đánh nhau đă xướng suất dân chúng ra giúp vua, được giao quản quân dân hai tổng, bảo vệ quê hương, có công, được phong tước Trinh dũng hầu. Năm Ất Dậu (1885), nhà nho Hà Văn Mỹ (Tiên Điền), cùng Ngô Quảng (quê Nghi Lộc) tổ chức quân cần vương chống Pháp ở Nghi Xuân, được Phan Đ́nh Phùng phong chức Thương Biện, giao phụ trách Nghi thứ. Căn cứ của hai ông xây dựng tại Khe Rẫy, xă Cương Gián được duy tŕ cho đến thời Duy Tân – Đông Du do Phan Bội Châu lănh đạo. Hà Văn Mỹ bị giặc Pháp bắt, đă tự sát để giữ trọn danh tiết. Ở thời hiện đại, nếu hồi Xô Viết Nghệ Tĩnh, Tiên Điền có người con tiêu biểu, người cộng sản trung kiên, liệt sĩ Nguyễn Phương, th́ qua hai cuộc kháng chiến , Tiên Điền đă được Nhà nước phong danh hiệu “Đơn vị anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân”.

Tiên Điền đúng là đất vơ, nhưng người ta lại biết nhiều hơn đến một làng của học hành, khoa bảng. Gia phả họ Đặng chép về vị tổ Đặng Chủng: “…Ban đầu ngài khai hoang mở đất dựng nhà, sau cảm thấy đă yên ổn bèn mở trường học vừa dạy con cháu, vừa dạy con em nhà nghèo…”. Nhiều người xuất thân từ các danh gia khác cũng làm như vậy. Học tṛ Tiên Điền ngày càng đông. Thời ấy, học tṛ ở đây đều nghèo, con cháu các thế gia cũng không hơn ǵ mấy. Anh em Bá Trí, Trần Trọng Viêm đi học xa, chiếc chiếu ngồi cũng rách nát, thiếu ăn, thiếu mặc, đến hạt muối trắng cũng phải chia phần từng bữa. Nhưng nhiều người học giỏi nổi tiếng. Ông Hoàng Chính Trực (không rơ tên húy), người khai khoa ở đây, lúc nhỏ học giỏi, v́ da đen nên được gọi là “Hắc thần đồng”. Về sau, Nguyễn Nghiễm, Lê Hoàng Đáp đều nổi tiếng thần đồng. Nguyễn Nghiễm đỗ Hoàng giáp c̣n Lê Hoàng Đáp đỗ đầu thi hương… Rất nhiều người đỗ đạt lúc c̣n ít tuổi. Lê Cảnh Quang 17 tuổi, Phạm Kiều Nho 16 tuổi, Nguyễn Do 15 tuổi đă đỗ Hương Cống. Hà Nguyên Tiếu, Nguyễn Khản, Nguyễn Trước, Hà Văn Gia… đều đỗ lúc mới 20, 21 tuổi…

So với các làng xă trong huyện th́ về khoa cử, Tiên Điền chậm sau khá xa. Nhưng từ giữa thời Lê Trung Hưng đến thời Nguyễn, nhất là vào thế kỷ XVIII, Tiên Điền nổi tiếng về học hành, khoa bảng ở xứ Nghệ.

Dưới hai triều đại Lê – Nguyễn, huyện Nghi Xuân có 21 vị đại khoa th́ Tiên Điền chiếm 6 vị (1 hoàng giáp, 4 tiến sĩ đều là người họ Nguyễn, 1 phó bảng họ Hà). Toàn huyện có 115 vị khoa hương (93 hương cống, 22 cử nhân) th́ Tiên Điền có 32 vị (29 hương cống, 3 cử nhân). Một số tài liệu cũng ghi 8 vị đỗ bảng ất, 5 tam trường (sinh đồ) đời Lê, số đó có Nguyễn Du, và 3 tú tài đời Nguyễn trong đó có 2 người họ Nguyễn.

Hầu hết các ḍng họ đều có người đỗ đạt, làm quan, nhưng nổi lên chỉ có họ Nguyễn. Khoa th́ nhị, tam giáp tiến sĩ, chiếm 5/6 vị đại khoa trong làng, và hàng chục hương cống, sinh đồ, cử nhân, tú tài thời Lê – Nguyễn. Hoạn th́ chức đến Thượng thư, thăng Tư đồ, Tham tụng, Bồi tụng, Tham đốc; Đô chỉ huy, lĩnh Trấn thủ, tước thảy Công, Hầu…, cha con, anh em đứng đầu trong triều, ngoài quận. Ấy là vào thời Lê mạt, cuối thế kỷ XVIII, lúc thịnh đạt nhất của họ Nguyễn, cũng là của Tiên Điền.

Hồi cuối Lê (TK XVIII), làng Tiên Điền hẻo lánh xưa đă trở thành nơi đô hội nhất nh́ xứ Nghệ. Sách cổ chép rằng, quanh đầm Phổ Quán, lầu gác, dinh thất tráng lệ mọc nối tiếp nhau, hàng chục đền miếu, đ́nh chùa được xây dựng khắp các thôn xóm, trong đó có các công tŕnh văn hóa tiếng tăm. Đ́nh Tiên không lớn, nhưng là ngôi đ́nh đẹp nhất trong vùng, xây dựng khi làng được ban tên “xă Trung Nghĩa”. Chùa Trường Ninh do dân làng lập lên, đến đời Hoằng Định (1601-1619), Đoan quận công cho sửa lại và dựng bia (bia vẫn c̣n, nhưng chữ đă mất). Đ́nh Từ Văn xưa ở xă Hoa (Xuân) Viên, đời Vịnh Hựu (1735-1740), Xuân quận công cho dời về đây, dựng cạnh đ́nh Tiên và chùa Trường Ninh… Hai cây cầu cũng được coi là thắng tích trong làng. Cầu Báu Kệ bắc trên bàu nước trước đ́nh. “Hai mố cầu xây đá làm chân, dọc bờ trồng cây đại thụ làm bóng mát, cảnh trí thật đẹp”. Cầu Tiên do Xuân quận công (Nguyễn Nghiễm) cùng hai ông Liêu quận công (Đặng Sĩ Vinh) và Hiến phó (Đặng Thái Bàng) ở Uy Viễn cho sửa lại, dựng bia đá đầu cầu. “Thời đó, ngựa xe, mũ lọng đi lại như mắc cửi, cảnh trí không khác ǵ Ngọ kiều nhà Đường”. C̣n chợ Tiên th́ “hàng quán nối răng lược, lầu các chăng mạng nhện, lại có người Tàu lập phố xá buôn bán, thật là nơi “văn vật” nhất huyện…”.

Trong các thôn, c̣n có nhiều đền, miếu: Đền Đoan quận công, đền Hội quận công ở Lương Năng, đền Uy quận công ở Vơ Phấn, đền Trinh Dũng hầu, đền Hà Chân đài ở Báu Kệ.. Riêng họ Nguyễn có đền Lĩnh Nam công, đền Tiên lĩnh hầu (Nguyễn Huệ), đền Xuân nhạc công (Nguyễn Nghiễm), đền Lam khê hầu (Nguyễn Trọng), đền Điền nhạc hầu (Nguyễn Điều)…

Năm Tân Hợi (1791), nhân vụ Nguyễn Quưnh (con thứ tư Nguyễn Nghiễm) mưu chống lại nhà Tây Sơn, làng Tiên Điền bị quân Tây Sơn đốt phá. Hầu hết dinh cơ các đại gia và một số đ́nh, miếu bị cháy trụi. Đến đời Nguyễn, một số công tŕnh được trùng tu, nhưng cảnh tượng huy hoàng xưa không c̣n nữa. Các nhà quư tộc phong kiến cùng thời với dinh cơ của họ và nhiều công tŕnh kiến trúc văn hóa, lịch sử đă mất từ lâu. Nhưng những tập tục hay, những truyền thống tốt đẹp của nhân dân Tiên Điền mà các ḍng họ lớn có phần đóng góp quan trọng th́ vẫn c̣n măi măi. Sách Nghi Xuân huyện chí chép sơ lược lịch sử chùa Trường Ninh và đ́nh Tiên: “Ngày xưa, người già cả trong làng, ai đến lứa tuổi 52, phần lớn đều gặp bất lợi. Trong làng có 5 cụ đến tuổi đó biện lễ đến cầu yên ở chùa này th́ cả năm cụ đều được yên ổn. Sang đầu năm sau, các cụ lên tuổi 53, họ làm cỗ lên chùa tạ, do đó trở thành lệ làng. Từ 12 đến rằm tháng giêng hàng năm, mỗi thôn được chia lượt một ngày lễ chùa. Khi các thôn lễ Phật xong, toàn xă về họp mặt tại đ́nh Tiên uống rượu, ngâm thơ mừng thọ, chung vui”.

Uống rượu, ngâm thơ đầu xuân là sinh hoạt văn hóa của giới quư tộc, nho sĩ. C̣n hát ví giao duyên là sinh hoạt văn nghệ b́nh dân mà nhiều tao nhân, mặc khách cũng đam mê không kém trai gái trong làng. Ngày nay c̣n nhiều giai thoại về Nguyễn Du tham gia các cuộc hát với trai gái Tiên Điền, Tràng Lưu…

Cùng với những tục lệ hay, những nếp sinh hoạt văn hóa đẹp, học hành là truyền thống quư được nhân dân giữ ǵn và phát huy cho đến bây giờ, người được đi học chỉ tâm niệm “Tiến vi quan, thối vi sư” – Tiến lên th́ làm quan, lui về th́ làm thầy. Nếu không dạy học (nho) th́ làm thuốc (y), làm địa lư (lư), làm bói toán (số) cũng là những “nghề thầy”. Tiên Điền có nhiều thầy giỏi. Đặng Chủng là một trong những người đầu tiên mở trường dạy học ở Tiên Điền. Lê Hoằng Quy người thôn Tiên Bào (Tiên Điền xưa) dạy học ở Báu Kệ, được học tṛ thờ làm Tổ sư. Hà Đăng Châu, Hồ Sỹ Lâm đều là những vị sư mô nổi tiếng đă tạo nên nhiều nhà khoa bảng thời Lê – Nguyễn. Tiên Điền có nhiều người làm học quan như các Huấn đạo Hà Thúc Đạt, Hà Tôn Dao, Trần Thới Chuẩn…, lại có Nguyễn Nghiễm là Nhập nội kinh diên, Nguyễn Khản làm Tả tư giảng là thầy học của vua Lê chúa Trịnh.

Các ḍng họ Hà, Trần, Lê…, nhất là họ Nguyễn lại có nhiều danh y: Nhân Hiền tiên sinh Hà Công Huy làm việc ở viện Nhung y, về hưu ở thôn Báu Kệ tiếp tục làm thuốc. Họ Nguyễn, từ các vị tổ Nam dương công, Lĩnh nam công đến các con cháu, Nguyễn Trọng, Nguyễn Cảnh(2), Nguyễn Nhưng, Nguyễn Nghi, Nguyễn Thị Uyên… đều là thầy thuốc có tài. Nguyễn Trọng có công nghiên cứu thuốc Nam, thuốc của Nguyễn Cảnh được coi là “thuốc thánh”, nhà thơ Nguyễn Hành thường nói “ông có tài “lương tướng”… Về sau, Tiên Điền vẫn là đất của nhiều vị lương y… Lĩnh nam công Nguyễn Quỳnh, giỏi nghề thuốc, lại có biệt tài về nghề địa lư (phong thủy)…

Trong nhiều lĩnh vực sáng tạo văn hóa, Tiên Điền đều có những tác giả nổi tiếng trong xứ, trong nước. Đó là Nguyễn Nhiệm, Nguyễn Quỳnh với các trước tác y học Nam dương tập yếu kinh nguyên, Từ ấu chân thuyên quyết nghị tập; Nguyễn Nghiễm với các bộ sử, địa Việt sử bị lăm (7 quyển), Lạng Sơn toàn thành đồ chí; Hoàng Tôn Tuẫn, Trần Duy Tự, Hoàng Kim Thành với các bộ sách dịch thuật, sưu tập: Thi phú chú giải, Tiểu học âm diễn nghĩa và Thái Hiên dư tập, Phú tập, Tứ lục tập. Đặc biệt, Tiên Điền trở thành tên của thi hào dân tộc Nguyễn Du…

Ngày nay, con em Tiên Điền vẫn tiếp tục phát huy truyền thống tốt đẹp của cha ông, có nhiều đóng góp xứng đáng với quê hương đất nước, nhất là tạo được nhiều nhân tài thời hiện đại, tiêu biểu là GS – TS y học Hà Văn Mạo, GS khảo cổ Hà Văn Tấn…

                                                       9-2005

                                                       T.K.Đ

_______________

  1. Về tên làng,U Điền do các cụ xưa truyền lại, chứ không có văn bản; Tiên Điền thấy được chép sớm nhất trong Hoan châu Nghi Tiên Nguyễn gia thế phả do cụ Nguyễn Nghiễm (1708-1776) biên soạn; c̣n Trung Nghĩa là tên vinh phong chứ không phải tên hành chính.
  2. Nguyễn Cảnh, có sách chép là con thứ sáu Lĩnh Nam công Nguyễn Quỳnh, em út Nguyễn Nghiễm. Nhưng gia phả lại chép con thứ sáu Nguyễn Quỳnh là Nguyễn Huyền (1728-1795) làm quan vơ. Các đời thứ sáu, thứ bảy chi giáp ất họ Nguyễn không có ai tên Nguyễn Cảnh – Chúng tôi chưa tra cứu, xác minh được.